Lịch sử Máy_bắn_đá

Các nhà nghiên cứu còn nhiều tranh cãi về lịch sử máy ném đá. Nhưng ở Việt Nam lịch sử có ghi nhận quân Đại Việt đã dùng máy ném đá công thành quân nhà Tống. Máy ném đá do người Chiêm Thành theo Hồi giáo sử dụng chống lại quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy thế kỷ 13, gọi là (Hồi hồi pháo), loại ba cần gọi là (Hồi Hồi tam sảo pháo). Hiện nay người ta tạm thống nhất Máy ném đá lớn nhất là của quân Nguyên - Mông dùng khi đánh Biện Kinh (kinh đô nước Kim) năm 1234 có 13 sảo, dùng 500 người kéo dây, bắn đạn đá nặng 60 kg

Vào cuối những năm 1260, trong cuộc vây hãm hai thành Phàn ThànhTương Dương của nhà Tống, quân Mông Cổ đã nhờ 2 kỹ sư người Ba Tư lắp đặt hàng loạt máy Trebuchet để công phá Tương Phàn, mỗi máy bắn đá mới này có thể phóng các quả đạn nặng 300 kg và tầm xa 500m. Kết quả là sau 6 năm trời chống đỡ kiên cường (1267-1273), hai tòa thành này đã bị san bằng, buộc lực lượng phòng thủ phải đầu hàng.

Trong cuộc vây hãm tại lâu đài Stirling năm 1304, vua nước Anh là Edward Longshanks đã cho chế tạo một cỗ máy Trebuchet khổng lồ có tên gọi là “Warwolf”. Cỗ máy khủng khiếp này có thể bắn những tảng đá nặng tới 300 lbs (140 kg), hủy diệt được những mục tiêu kiên cố nhất của kẻ thù.

Người Trung Quốc đã có loại vũ khí tương tự như Trebuchet từ thế kỷ thứ 4 TCN. Tuy vậy, những cỗ máy của họ nhỏ hơn và đóng vai trò ít quan trọng hơn trong các trận đánh công thành.

Để đối phó lại sức công phá của Trebuchet, các công trình sư thời Trung cổ đã phải thiết kế các thành lũy, pháo đài với độ dày lớn nhất có thể.